Ý Nghĩa 14 Chính Tinh Trong Khoa Tử Vi

Theo dõi Lịch Vạn Niên trên ico-google-new.png
  • Viết bởi: Nguyễn Hương
    Nguyễn Hương Mình là Nguyễn Hương, mình thích du lịch, trải nghiệm các nền văn hóa khác nhau, mình yêu thích chiêm tinh học, hoàng đạo và tâm linh. Từ nhỏ mình đã yêu thích những câu chuyện thần thoại hy lạp cổ đại và mật ngữ các vì sao. Sau khi tốt nghiệp đại học Yale ngành xã hội học, mình về Việt Nam và cùng với một vài người bạn có cùng đam mê, chúng mình đã lập ra website lichvannien.net để giúp mọi người tra cứu về lịch âm dương, xem ngày tốt - ngày xấu.
  • 5 Lượt xem
  • Cập nhật lần cuối 06/10/2023
  • Reviewed By Trần Chung
    Trần Chung Khám phá hành trình và đóng góp của Trần Chung, chuyên gia nổi tiếng trong lĩnh vực tử vi và phong thủy, người bảo trợ nội dung cho website Lichvannien.net.

Trong khoa tử vi có 14 chính tinh nào? Có ý nghĩa như thế nào? Hãy cùng tìm hiểu trong bài viết này.

14 chính tinh là một khái niệm quan trọng trong tử vi, chi phối rất mạnh mẽ trên toàn lá số. Việc nắm được bản chất và đặc tính của 14 chính tinh là mấu chốt của việc luận đoán. Các chính tinh này có ý nghĩa cơ bản trong lá số tử vi, ví dụ như chỉ ra tính cách, sự nghiệp, tình duyên, sức khỏe và tài lộc của một người. Việc hiểu rõ về 14 chính tinh sẽ giúp cho người xem tử vi có cái nhìn tổng quan hơn về lá số của mình và từ đó có thể đưa ra những quyết định đúng đắn hơn trong cuộc sống. Hãy cùng tìm hiểu kỹ hơn về 14 chính tinh trong bài viết này bạn nhé!

LẤY LÁ SỐ TỬ VI

Chính tinh là gì?

Chính Tinh có thể hiểu là một ngôi sao quan trọng và có tầm quan trọng đặc biệt. Nó đóng vai trò tôn vinh và xác định một ý nghĩa quan trọng trong một cung mệnh cụ thể và dựa trên ý nghĩa đó để thực hiện việc đánh giá và luận đoán.

Nếu có Chính Tinh, thì cũng sẽ có Phụ Tinh, với Chính Tinh đảm nhận vai trò quan trọng trong khi Phụ Tinh xuất hiện để hỗ trợ, bổ sung, hoặc thậm chí là thay đổi tính chất ban đầu mà Chính Tinh mang lại. Tuy nhiên, nếu Phụ Tinh mang tính chất trở ngại hoặc làm suy yếu, nó có thể ngăn chặn 14 chính tinh và làm giảm đi tầm quan trọng của nó.

Nếu Phụ Tinh đóng vai trò của một Hung tinh hoặc Sát tinh, điều này có thể gây cản trở và biến đổi tính cách và xu hướng của Chính Tinh, khiến chúng đi theo một hướng không mong muốn và biến dạng so với tính cách ban đầu. Nếu tiến xa hơn, 14 chính tinh có thể thể hiện một quan điểm, một tính cách hoặc một xu hướng riêng của nó. Phụ Tinh có thể ủng hộ quan điểm này nếu chúng có tính chất tương thích và giúp nó phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, để đánh giá chính xác và hiệu quả, chuyên gia tử vi cần phải tìm hiểu kỹ về các chính tinh và phụ tinh, cũng như cách chúng tương tác với nhau trên bản đồ lá số tử vi.

14 chính tinh trong lá số tử vi

Tinh diệu dưới đây có những đặc tính cơ bản của tất cả 14 chính tinh. Tuy nhiên, chỉ cần nêu những nét chính yếu, cần và kỵ để có thể hiểu được phép tắc cơ bản của Tử vi đẩu số. Bên cạnh đó, cũng cần chỉ ra một số cách cục đặc biệt như Nhật nguyệt phản bối, Mã đầu đới tiễn và các phương pháp khác. Mặc dù không phải là nhiều, nhưng nếu được hiểu kỹ càng, chúng ta cũng có thể nắm bắt được một số phép tắc cơ bản của Tử vi đẩu số.

Sao Tử Vi

Quan điểm của Vương Đình Chi

Ý Nghĩa 14 Chính Tinh Trong Khoa Tử Vi
Tử Vi là chủ tinh Bắc đẩu, thuộc mệnh Thổ, hóa là Đế Quân. Để có thượng cách, Tử Vi cần được sự trợ giúp của bộ sao Quần Thần gồm Phủ Tướng, Phụ Bật, Xương Khúc, Khôi Việt. Nếu hội hợp được Phủ Tướng, Tử Vi sẽ mạnh mẽ, có tài, có thế. Phụ Bật là tượng của Đề Hoàng, nên cần sự trợ sức của nó, nếu có trợ lực, lòng dạ cũng rộng rãi. Nếu có Xương Khúc cùng hội hợp, thì Tử Vi có học thức, có trí tài, cũng có khả năng làm giảm nhẹ cái tính cao ngạo, chủ quan của mình. Nếu có Khôi Việt hội hợp, Tử Vi sẽ gặp nhiều cơ hội, có khả năng gia tăng địa vị.

Tuy nhiên, nếu Quần Thần xa lánh, trở thành Cô Quân, Tử Vi sẽ chủ quan quá sâu, tâm cao khí ngạo mà mừng giận thất thường, không khéo đối xử với người. Nếu gặp Không vong, Hoa cái thường có tư tưởng độc tài. Gia Tứ Sát là vua vô đạo, thuộc hạ cách, nếu thêm Phúc cung không tốt thì là người hèn mọn dung tục.

Phụ Bật, Xương Khúc, Khôi Việt là bộ sao Lục cát, đối với Chủ tinh Tử Vi có sự trợ giúp rất lớn. Ngoài ra, Tử Vi còn là Chủ tinh Thiên Phủ, người sinh ban đêm là Thái Âm nhập miếu, sinh ban ngày là Thái Dương nhập miếu, nhưng phải được đối diện nhau, nếu chỉ thấy một thì không mạnh mẽ. Đặc biệt, nếu Tả Hữu Khôi Việt chỉ gặp một sao thì giống như không gặp.

Lời bàn: Vương tiên sinh cho rằng Tử vi tuy là Đế tinh nhưng Lực của Tử vi lại phụ thuộc vào Quần Thần. Nếu được Quần thần củng chiếu thì mới có thể đạt được thượng cách, nếu không thì chỉ đạt được mức bình thường. Ngoài ra, Tử vi còn có tính xấu là Tâm tính cao ngạo, chủ quan. Nếu không có sự trợ giúp của Văn tinh, quý tinh mà lại gặp hung sát tinh thì sẽ dễ trở thành kẻ thô lậu. Về việc phân định mệnh Dương, Vương tiên sinh cho rằng Tử vi thuộc mệnh Thổ, khác với quan điểm chung là mệnh Dương Thổ. Điều này là bất cập trong sách vở về tử vi. Quan điểm của Vương tiên sinh về các sao đi từng cặp như Tả Hữu, Khôi Việt là cần phải đủ cả cặp mới có tác dụng, nếu chỉ có một sao đơn lẻ thì tác dụng giảm sút, coi như không có.

Bàn thêm về sao Tử Vi

Người có Tử Vi nhập cung Mệnh sẽ có những đặc điểm như sau:

  • Về ngoại hình: Mặt dài vuông vắn hoặc tròn trịa, sắc tím hoặc trắng xanh, vùng eo có nhiều thịt, béo vừa phải. Vẻ ngoài trung hậu, ổn trọng dày dạn, khiêm cung chính trực, có khí chất tôn quý.

  • Về tính cách: Có năng lực lãnh đạo tốt, quan hệ giao tiếp rộng rãi nhưng sau khi thành công lại có sự bảo thủ nhất định. Rất coi trọng danh lợi, khi mưu cầu theo đuổi thì thái độ tích cực nhiệt tình, nhưng một khi đạt được mục đích rồi thì bỏ qua không để ý nữa. Cao ngạo tự đại, hay làm ra vẻ, một mặt tình cách cố chấp, một mặt khác lại dễ bị lay động bởi lời nói của người khác.

  • Đối với nữ mệnh Tử Vi: Da trắng mịn, hơi béo, vẻ ngoài đoan trang, nhìn vào là tướng quý phu nhân.

Ngoài ra, người có Tử Vi nhập Mệnh đều học rộng, lời lẽ nghiêm nghị, có lễ tiết, cho người khác cảm giác có thể tin tưởng. Tuy nhiên, để đạt được thành công, họ cần phải kiên trì và không nản lòng trước khó khăn.

Sao Thiên Cơ

Quan điểm của Vương Đình Chi

Thiên Cơ là sao thứ nhất của chòm Nam Đẩu và thuộc mệnh Mộc. Tương tự như Mưu thần, Thiên Cơ có tính cách thay đổi mạnh mẽ, khi thiện thì rất tốt, khi ác thì rất xấu. Nếu Thiên Cơ được hội tụ với Xương Khúc, Long Trì Phượng Các và Hóa Khoa thì sẽ trở nên thông minh tuyệt đỉnh và có khả năng dụng thành chính đạo. Tuy nhiên, nếu Thiên Cơ gặp Hóa Kỵ, Sát tinh và các sao bất lương khác thì tính cách của nó sẽ trở nên bất lương và gian trá.

Đối với các phụ tinh là sát tinh, Thiên Cơ rất nhạy cảm. Vì vậy, Hóa Quyền có khả năng tăng cường tình ổn định của Thiên Cơ và gia tăng khả năng đối kháng với sát tinh. Hóa Khoa cũng là sao rất tốt đối với Thiên Cơ, vì nó có khả năng gia tăng thông minh tài trí của Thiên Cơ. Tuy nhiên, Hóa Lộc lại khiến cho Thiên Cơ chỉ thích sử dụng cái trí mưu trong kinh doanh và chỉ thích kiếm tiền. Trong khi đó, Hóa Kỵ lại khiến cho Thiên Cơ trở thành kẻ chỉ thích mưu lợi và đi ngang về tắt.

Nếu Thiên Cơ lâm Phúc đức cung mà gặp Sát tinh thì tâm sẽ không được nhàn và có nhiều dự định, toan tính. Nếu gia Hóa Kỵ thì tâm sẽ phiền và thường nông cạn. Vì Thiên Cơ là sao "Thiện Biến", nên tình cảm và tư tưởng của nó thường thay đổi mạnh. Do đó, rất cần Hóa Quyền để tăng độ ổn định. Thiên Cơ có bản chất của mưu thần, nên thích hợp với vai trò phụ tá.

Lời bàn: Vương tiên sinh rất coi trọng Tứ Hóa, Tứ Hóa là một yếu tố rất quan trọng trong việc cải biến tinh chất của các tinh diệu, đặc biệt là Thiên Cơ. Ông đánh giá Thiên Cơ là một sao rất cơ biến, có khả năng thích nghi cao và phụ thuộc vào hệ thống các sao phụ tinh hội hợp. Theo ông, nếu Thiên Cơ cư Phúc cung, sao này có khả năng chế sát và hóa giải tác dụng xấu của một số sát tinh khi hội hợp vào Phúc Cung. Tuy nhiên, tính chất của Thiên Cơ có thể thiện hoặc ác tùy thuộc vào các yếu tố khác nhau.

Bàn thêm về sao Thiên Cơ

Thiên Cơ nhập Mệnh có những đặc điểm như sau:

  • Thân hình vừa phải, trung bình, khi nhập miếu thì có xu hướng béo, còn lạc hãm thì tương đối gầy. Thông thường, ở trạng thái béo vừa phải.

  • Hội cát tinh, tâm tính hiền lành, hiếu nghĩa với lục thân. Vẻ ngoài đoan chính ổn trọng, hành sự có phương pháp.

  • Tính cách của Thiên Cơ tương đối gấp, có ý chí ứng biến cơ động linh hoạt, phản ứng đàu óc mẫn thiệp, tốc độ nói nhanh, cuộc sống lao tâm. Ham học hỏi tìm kiếm tri thức, đa học đa năng, nhưng chỉ chuyên tâm vào một thứ thì tốt. Có hứng thú và sự yêu thích với triết học, tôn giáo, các sự vật thần bí.

  • Thiên Cơ tại Mệnh, chỉ cần không hội các hung tinh đồng cung, thì trọng tình cảm, vui vẻ giúp đỡ người khác, tâm tính thẳng thắn bộc trực.

  • Người có Thiên Cơ tọa Mệnh tướng đối giỏi xã giao, lên kế hoạch, phân tích, túc trí đa mưu, hành sự có lí lẽ, có năng lực thiết kế sáng tạo.

Tóm lại, Thiên Cơ nhập Mệnh là người có tính cách gấp, tâm tính hiền lành, ham học hỏi và đa tài. Họ có khả năng ứng biến cơ động, phản ứng nhanh và có tốc độ nói nhanh. Ngoài ra, họ còn có sự yêu thích với triết học, tôn giáo và các sự vật thần bí. Nếu Thiên Cơ không hội các hung tinh đồng cung, họ sẽ trọng tình cảm, vui vẻ giúp đỡ người khác và có tâm tính thẳng thắn bộc trực. Người có Thiên Cơ tọa Mệnh còn giỏi xã giao, lên kế hoạch, phân tích, túc trí đa mưu, hành sự có lí lẽ và có năng lực thiết kế sáng tạo.

Sao Thái Dương

Quan điểm của Vương Đình Chi:

Thái Dương là một sao chủ tại trung thiên, thuộc Dương Hỏa và là sao của quan lộc, chủ quý. Thái Dương là chủ tinh của người sinh ban ngày và rất tốt nếu cư cung Quan Lộc. Để phán đoán sự cát hung của Thái Dương, trước hết phải xem các vị trí miếu vượng, cư các cung Dần Mão Thị Tỵ Ngọ Mùi là cung miếu vượng.

Đối với người sinh ban ngày, nếu gặp Thái Dương miếu vượng thì rất đẹp, nhưng nếu lạc hãm thì sẽ giảm nhiều sự tốt đẹp. Ngược lại, người sinh ban đêm nếu gặp Thái Dương miếu vượng cũng bình thường, nhưng nếu lạc hãm thì sẽ gặp hung. Cần xem kỹ các Phụ tinh là Sát tinh hội hợp để luận đoán cát hung của Thái Dương.

Thái Dương chủ quý, Hóa Quyền, Hóa Khoa càng tăng thêm tính chất quý hiển của Thái Dương, nhưng cần lưu ý là tại xã hội hiện đại thì chuyện Tài Phú rất quan trọng, cho nên cái sự thanh quý của Thái Dương chưa hẳn đã toàn mỹ. Bởi vậy, Thái Dương rất cần Hóa Lộc, nếu có Hóa Lộc, Lộc Tồn hội hợp là chân mệnh của Phú Quý.

Thái Dương chiếu khắp vạn vật, cho mà không nhận, cư tại Ngọ cung là cách Nhật Lệ Trung thiên, rực rỡ mà rất thịnh, có khả năng danh lớn hơn lợi, nhưng cũng chưa hẳn là kết cấu đẹp. Trong cái ánh sáng ấm áp của Thái Dương, người ta rất thoải mái. Cho nên cần xem xét kỹ tất cả các đặc tính của tinh diệu, được ở trong cái ánh sáng ấm áp của Thái Dương thì là đại phúc hậu vậy.

Thái Dương ở trên trời vận hành không ngừng, chiếu sáng mặt đất, cho nên Thái Dương chủ về ĐỘNG, cho mà không nhận. Các lời bàn về Thái Dương xưa này đều cho rằng Thái Dương quan trọng ở chỗ “Quý”, trước phải có “Quý” (danh tiếng) rồi sau mới giầu có. Chẳng qua, nếu không luận như thế thì Thái Dương cũng có một điểm là có bản chất cái Danh lớn hơn cái Lợi. Nhất là Thái Dương càng sáng thì càng rõ bản chất này.

Lời bàn:Thái Dương chỉ thực sự quý giá đối với người sinh vào ban ngày. Ngoài việc xem xét các phụ tinh hội hợp, Vương tiên sinh cũng rất coi trọng việc đặt ra vấn đề đồi với người sinh vào ban ngày hay ban đêm. Về khái niệm "Quý" của Thái Dương, Vương tiên sinh đã có ý kiến rất thực tế khi áp dụng vào xã hội hiện đại. Trong khi cổ nhân cho rằng Quan Quý là đứng đầu, Vương tiên sinh lại không đánh giá cao cái Quan Quý mà lại tập trung vào Thực Lộc của Thái Dương, cho rằng đó là điều không hoàn toàn tốt. Khác với cổ nhân, Vương tiên sinh cho rằng Thái Dương là người có tinh thần quảng bác "cho mà không nhận". Trong khi đó, cổ nhân lại cho rằng Thái Dương có tính chuyên quyền. Tuy nhiên, điểm này không được Vương tiên sinh đồng tình, bởi vì Thái Dương vốn là Thuần Dương, dương cương đến cùng cực, vì vậy việc lấn át, chuyên quyền không phải là điều không thể.

Bàn thêm về sao Thái Dương

Thái Dương thường liên kết với người sắc mặc đỏ hồng hay tím hồng, có khuôn mặt vuông vắn tròn trịa, thân hình khôi ngô, tướng mạo đường hoàng, trung thành chính trực, không tính toán chuyện thị phi, tấm lòng nhân từ, thích giúp đỡ, từ thiện, hào phóng, chí khí cao ngạo, thường bị người khác hiểu nhầm. 

Nếu Thái Dương được cát tinh thủ chiếu và đồng cung thủ chiếu với Thái mệnh, người này sẽ có phú quý song toàn. Nếu hội nhiều cát diệu thì có thể làm khách hay lui đến những nơi quyền quý. Tuy nhiên, nếu không có cát tinh thủ chiếu, thì người này sẽ thuộc tầng lớp nhân viên nhà nước bình thường. 

Nếu Thái Dương lạc hãm, lao tâm phí lực, tuy Hóa Quyền Hóa Lộc cũng chủ vất vả khác thường, nhưng nếu vào cung Quan Lộc, địa vị sẽ không được cao, và người này sẽ trở nên biếng nhác sau khi đã chăm chỉ trước đó. 

Đối với nữ mệnh Thái Dương, họ có chí hướng trượng phu, có cương có nhu, rất giỏi giang. Cá tính háo thắng, duyên với người khác phái tốt, nhiệt tình hướng ngoại, giao tiếp rộng, thường hay giao du với nam giới. Nếu hội Quyền Lộc được phong tặng (đất đai, chức hiệu), cung Phúc Đức có cát tinh chủ lấy được người chồng thông minh sáng suốt.

Sao Vũ Khúc

Quan điểm của Vương Đình Chi:

Vũ Khúc thuộc mệnh Kim và là sao thứ 6 của chòm Bắc Đẩu. Với tính cách cương liệt, quyết đoán và hành động kiếm tiền làm chính, người Vũ Khúc rất phù hợp với cư Quan Lộc và Tài Bạch cung. Tuy nhiên, nếu lâm vào cung Mệnh và các cung Lục Thân thì không tốt, bởi tính cương khắc thái quá.

Người Vũ Khúc tính cứng rắn, cho nên rất ngại Dương Đà cũng như Thiên Hình vì tính cô khắc càng tăng. Sao Vũ Khúc đối với Tứ Hóa cũng đặc biệt nhạy cảm, gặp Hóa Lộc thì rất tốt vì Vũ Khúc là tài tinh, Hóa Lộc cùng một tính, nên tài khí càng vượng, cũng có thể giảm nhẹ tính cương khắc của Vũ Khúc. Tuy nhiên, Hóa Quyền và Hóa Kỵ lại gia tăng tính chất cương liệt của Vũ Khúc, cho nên đồi với Vũ Khúc không được tốt lắm. Nếu gặp Hóa Kỵ, cứng quá ắt gãy, vì thế Vũ Khúc – Hóa Kỵ thường thường là Bại Cục ở chỗ đó.

Người Vũ Khúc tính cô khắc, cho nên cần Văn Xương, Văn Khúc cùng hội hợp để trung hòa, cũng giống thế – rất cần Thiên Phủ đồng cung. Thiên Phủ là tài khố (kho tiền), hai tài tinh gặp nhau là một sự kết hợp rất tốt, nếu lại có Hóa Lộc, Lộc Tồn thì càng đẹp. Tương đối mà nói, Vũ Phá với Vũ Tướng là hai tổ hợp khó hoàn mỹ, chủ yếu là do Phá Quân gia tăng tình ĐỘNG, lúc này việc gặp Lộc tinh mới tỏ ra rất quan trọng.

Trong Tứ Sát, Vũ Khúc sợ nhất Hỏa Linh, bất luận là tính chất nào của Vũ Khúc cũng đều không tốt khi gặp hai sao Hỏa Linh. Vũ Khúc ngoại trừ sợ Hỏa Linh ra, đôi khi cũng không tốt nếu gặp Xương Khúc, nhất là gặp một mình Văn Khúc (đương nhiên Văn Khúc – Hóa Kỵ thì càng tệ) “song khúc hội” nhất định sẽ có khuyết điểm. Cần lưu ý trong Đẩu số có một cách là Linh Xương Đà Vũ là bại cục.

Mặc dù Vũ Khúc có nhiều khuyết hãm, nhưng lại có hành động tương đối cao thượng. Vì thế, rất tốt nếu gặp được Khôi Việt cùng với Thiên Cơ hội hợp.

Lời bàn:Vương tiên sinh đã đưa ra một luận điểm rất chính xác khi nói rằng "Vũ khúc tuy là tài tinh nhưng có quá nhiều khuyết điểm, vì thế chớ thấy TÀI mà cho là tốt". Điều này cho thấy rằng, dù Vũ Khúc có tài năng, nhưng nó cũng có những điểm yếu. Cách Linh Xương Đà Vũ trước đây đã được coi là Bại cách, tối hung, điều này cho thấy rằng không phải tất cả các tinh tú đều có thể hoạt động tốt với nhau.

Vương tiên sinh cũng cho rằng Vũ Khúc có một đặc tính cố hữu là Cô Khắc, nhưng bản chất của cái việc Cô Khắc này là do tính cương cường mà ra. Từ đó, ta có thể suy ra rằng nếu Vũ Khúc được các phụ tinh là văn tinh, quý tinh trợ giúp thì có thể chế ngự được cái tính cô khắc cương cường của nó. Điều này cho thấy rằng, sự phối hợp giữa các tinh tú mới là quan trọng, một tinh tú đơn lẻ không thể làm nên điều gì. Các phụ tinh, tá tinh cùng hợp tác với nhau mới có thể tạo ra sự cát hung phần nhiều.

Tóm lại, theo chuyên gia tử vi nghiên cứu về 14 chính tinh, việc phối hợp giữa các tinh tú là rất quan trọng và không phải tất cả các tinh tú đều có thể hoạt động tốt với nhau. Việc sử dụng các phụ tinh, tá tinh để hỗ trợ và chế ngự các tính cô khắc cương cường của một tinh tú là điều cần thiết để đạt được sự cát hung phần nhiều.

Bàn thêm về sao Vũ Khúc

Người mang Mệnh Vũ Khúc thường có tính cách cương cường, quả quyết và thẳng thắn. Họ có dáng nhỏ, giọng nói to và thích thể thao vận động. Người này rất coi trọng chữ tín, có ý chí kiên cường bất khuất và thường nói nhanh gọn, hào sảng. Hình mặt vuông và trọng nghĩa khí.

Nếu là nữ mệnh Vũ Khúc nhập Mệnh, cuộc đời của họ thường gặp nhiều khó khăn và đấu tranh. Họ có xu hướng đoạt quyền chồng và thích ra lệnh trong nhà, thường coi thường chống. Sau khi kết hôn, họ khó mà ở yên trong nhà và thường ra ngoài làm việc. Nếu họ nhập Miếu, họ sẽ trở thành quý phu nhân và thường tham gia hội cát tinh. Họ có tính cách cương nghị và dễ trở thành người phụ nữ cứng rắn. Tuy nhiên, nếu họ gặp sát tinh trong hàm địa, họ có thể trở nên cô đơn và thậm chí trở thành quả phụ. Nếu kết hợp với Xương Khúc Thiên Diêu Đào Hoa hay Liêm Trinh thủ Thân, họ có thể trở nên dâm loạn.

Sao Thiên Đồng

Quan điểm của Vương Đình Chi:

Ý Nghĩa 14 Chính Tinh Trong Khoa Tử Vi
Thiên Đồng thuộc Dương Thủy và là sao thứ tư trong chòm Nam Đẩu. Thiên Đồng được ví như một Phúc tinh, chủ hưởng thụ và ý chí. Tuy nhiên, nếu có Hóa Lộc cùng với cát tinh hội hợp thì tốt, nhưng cũng cần phải cẩn trọng vì tham hưởng thụ có thể dẫn đến sự mềm yếu. Lúc này, nếu Thiên Đồng gặp được hoàn cảnh tốt và một số ít sát tinh, cũng đủ để kích động và dẫn đến thành tựu lớn. Tuy nhiên, nếu chỉ thấy sát mà không thấy lộc, thì không tốt cho Thiên Đồng. Thiên Đồng rất ưa Hóa Quyền, vì có thể tăng cường ý chí, bằng cách hội đủ Lộc Quyền Khoa Kỵ, mà sát diệu không nặng nề thì cũng chủ phú quý song toàn. Tuy nhiên, Thiên Đồng ngại nhất là Hóa Kỵ, vì đó là cách cục xấu. Mặc dù Thiên Đồng được đánh giá là Phúc tinh, nhưng cái Phúc ấy cũng có khuyết điểm. Để thực sự đạt được Phúc, Thiên Đồng cần đắc Lộc. Tuy nhiên, nếu không có cách cục đặc biệt tốt, việc đắc Lộc cũng có thể dẫn đến một đoạn gian khổ và vất vả. Thông thường, Thiên Đồng có một điểm yếu là "vãn vận" (vận muộn), do đó, dù được đánh giá là Phúc, cũng có thể gặp nhầm lẫn.

Lời bàn:Vương tiên sinh chú trọng nhiều vào vấn đề tài lộc, và rất đề cao các Lộc tinh. Tuy nhiên, đối với Thiên Đồng, ngoài cái đặc tính cố hữu, còn cần phải xem xét thêm cái vị trí miếu vượng của nó. Điều quan trọng mà Vương tiên sinh chỉ nhắc đến một cách mơ hồ đó là tính canh cải thất thường của Thiên Đồng. Ông cho rằng Hóa Quyền có thể giải trừ được cái tính canh cái hay thay đổi của Thiên Đồng.

Phân tích về việc Thiên Đồng hội Lộc tinh, lập luận của Vương tiên sinh rất sắc bén, cho rằng không phải là điều tốt, hé lộ quan điểm về việc kích động hoàn cảnh của sát tinh. Tuy nhiên, so với quan điểm của cổ nhân thì có lẽ tình chất của Thiên Đồng chưa được Vương tiên sinh nêu rõ ràng lắm.

Theo quan niệm của tử vi, Thiên Đồng là một trong 14 chính tinh, và được xem là tinh cát của Thổ. Tính cách của Thiên Đồng có tính canh cải thất thường, và vị trí miếu vượng của nó cũng cần được xem xét. Vương tiên sinh cho rằng Hóa Quyền có thể giải trừ được tính canh cái hay thay đổi của Thiên Đồng. Tuy nhiên, việc Thiên Đồng hội Lộc tinh không phải là điều tốt, và có thể kích động hoàn cảnh của sát tinh. Tuy nhiên, so với quan điểm của cổ nhân, tình chất của Thiên Đồng chưa được Vương tiên sinh nêu rõ ràng.

Bàn thêm về sao Thiên Đồng

Thiên Đồng ở Mệnh có nhiều đặc điểm đáng chú ý. Về mặt hình thức, Thiên Đồng có mặt hình vuông tròn, hai má đầy đặn, thân hình béo khi nhập miếu và trung bình hoặc lùn khi lạc hãm. Tính cách của Thiên Đồng rất ôn hòa, khiêm tốn, nhân từ, cương trực, tinh thông văn học, không hung ác và có chí lạ. Tuy nhiên, Thiên Đồng có chút lười biếng, đặc biệt là trong cuộc sống thường ngày, và thường trở thành kẻ nói suông. Để khơi dậy năng lượng của Thiên Đồng, cần sử dụng sát tinh kích thích.

Đặc điểm của sao Thiên Đồng là tính tình lạc quan, không câu nệ tiểu tiết, được mọi người yêu quý. Thiên Đồng có hứng thú với nhiều thứ, biết cách sống vui vẻ và ít khi tức giận. Tuy nhiên, Thiên Đồng thích tránh những công việc nặng nhọc và có khả năng tự hạn chế bản thân khá kém, dễ bị cám dỗ bởi thế giới bên ngoài. Nếu là nam mệnh Thiên Đồng đơn thủ Mệnh cung, có chút yếu đuối và dễ bị bắt nạt. Nếu là Thiên Đồng thủ Mệnh ở bất kỳ cung nào, tính tình đều ngây thơ giống như một đứa trẻ con.

Nếu là nữ mệnh Thiên Đồng, thường có khuôn mặt xinh xắn, hơi béo, da trắng và đối xử thân thiết với mọi người. Tuy nhiên, sau trung niên thì thường trông béo hơn. 

Sao Liêm Trinh

Quan điểm của Vương Đình Chi:

Liêm Trinh là một trong 14 chính tinh trong tử vi, thuộc mệnh Hỏa và là sao thứ 5 của chòm Bắc Đẩu. Hóa khí của Liêm Trinh là Tù Tinh, chủ về tình cảm và lý trí, và còn được gọi là Thứ Đào Hoa. Liêm Trinh có tính biến hóa tốt xấu khá lớn, do đó cần phải chú ý cẩn thận khi xem xét.

Nếu Liêm Trinh gặp Hóa Lộc thì tốt, vì chủ về tình cảm hòa hợp. Tuy nhiên, nếu gặp Hóa Kỵ thì không tốt, vì chủ về tình cảm tan vỡ hoặc có thể gặp tai ương về máu huyết. Nếu Liêm Trinh hội hợp với Sát Phá Tham thì cần có Lộc tinh cùng hội để tránh sát tinh quá mạnh, và điều này cũng có thể được coi là tốt. Nếu không gặp cát tinh mà lại gặp hung tinh thì sẽ gặp hình thương khó tránh.

Để phát huy cái mặt tốt của Liêm Trinh, cần có Thiên Phủ hội hợp cùng Xương Khúc và Lộc tinh. Nếu hội hợp với Thiên Tướng thì cũng là cách đẹp. Hội hợp với Tử Vi và Thiên Phủ cũng là cách đẹp, miễn là không gặp ác tinh. Tất cả các tổ hợp này được gọi là "Gặp thiện thì theo thiện".

Liêm Trinh chủ về tâm tư tình cảm, nếu tốt thì tình cảm phong phú, là người cao nhã vui tính. Tuy nhiên, nếu xấu thì sẽ tự tư tự lợi và thậm chí không thể khống chế được tình cảm của chính mình. Liêm Trinh là sự phản ảnh sâu sắc tinh thần, do đó cần phải suy đoán cẩn thận, đặc biệt là khi Liêm Trinh mang tính đào hoa và tình cảm.

Lời bàn: Đoạn này không có đề cập đến sự tương tác giữa Liêm trinh với Hóa Quyền và Hóa Kỵ. Tuy nhiên, đặc tính quan trọng của Liêm trinh là Tù tinh, khi gặp Quyền Kỵ, tính chất của nó sẽ thay đổi rất mạnh mẽ. Có thể Vương tiên sinh đã quá chú trọng vào đặc tính Đào Hoa của Liêm và cho rằng đó là yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ. Tuy nhiên, quan điểm này cần được suy ngẫm thêm.

Bàn thêm về sao Liêm Trinh

Người có Liêm Trinh nhập Mệnh thường có thân hình trung bình, trí nhớ tốt, khỏe mạnh và cường tráng. Họ có đôi mắt lộ, gò má cao, lông mày rậm và mắt to, mồm lớn, mặt vuông hay chữ nhật. Tính cách của họ thường cao ngạo và sơ cuồng, cứng rắn và thẳng thắn, cố chấp và đa phần tự cho mình là đúng, không nghe lời khuyên của người khác. Họ chăm chỉ chịu làm lụng, có tình cảm mãnh liệt, thích tự do và thích nói đôi câu công bằng đạo lý ở chỗ công cộng. Tính tình của họ thích phân tranh và khi bất đồng quan điểm với người khác thì sẽ ngay lập tức phản kháng. Tuy nhiên, để có kết luận cuối cùng về tính cách của người có Liêm Trinh, cần phối hợp thêm với các sao khác, vì Liêm Trinh có thể âm nhu cũng có thể dương cương.

Nếu Liêm Trinh đồng cung với Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang hoặc đồng cung với Dương Đà Hỏa Linh Tứ Sát, hoặc đồng cung với Hóa Kỵ thì họ sẽ biểu hiện rất rõ các tính chất trên, tính tình ngang ngạnh, lòng báo thù lớn, gấp gáp nông nổi, dễ tranh chấp với người khác, thể hiện rất rõ sự dương cương. Nếu như Liêm Trinh đồng cung với Thiên Tướng, Thiên Phủ, Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt hay Liêm Trinh Hóa Lộc thì lại biểu hiện đặc tính âm nhu, là người chăm chỉ ổn trọng, dám làm dám chịu, tích cực cầu tiến, đối xử với mọi người ôn hòa Thân thiết, tuy cũng có phần cao ngạo nhưng không nhất thiết thể hiện ra bên ngoài. Nếu như Liêm Trinh có hung cát tinh hỗn tạp thì tính cách của họ sẽ nửa âm nửa dương, vừa chính vừa tà, yêu ghét khó định.

Nếu là nữ mệnh Liêm Trinh tọa Mệnh cung, thì họ thường có khí chất tốt, cho người khác cảm thấy rất ẩn chứa và thu hút. Cơ thể của họ đẹp, ngũ quan đoan chính thanh tú, chính trực và làm việc già dặn. Tính tình của họ khá cương nghị.

Sao Thiên Phủ

Quan điểm của Vương Đình Chi:

Thiên Phủ thuộc Dương Thổ và là chủ tinh của chòm Nam Đẩu. Thiên Phủ có tính cách bảo thủ hơn, sức khai sáng không bằng và không có cái mạnh mẽ quyết liệt chủ quan của Tử vi. Tuy nhiên, Thiên Phủ dễ đối xử hơn với người hơn Tử vi. Để có được sự thành công, Thiên Phủ cần "quần thần đồng hội" và gặp được Lộc tinh. Khi đó, Thiên Phủ có khả năng vừa công vừa thủ, quyết đoán lớn lao. Nếu không gặp được Hóa lộc hoặc Lộc tồn, Thiên Phủ sẽ là người hành sự cẩn trọng, lợi cho việc giữ gìn cơ nghiệp. Nếu Thiên Phủ gặp các cát tinh khác mà không gặp Lộc tinh, sẽ rất khó khăn và chỉ nên nấn ná đợi thời cầu tài. Nếu Thiên Phủ đóng ở Tài Bach hoặc Quan lộc cung, sẽ hoàn hảo vì xã hội ngày nay người người cầu tài theo mệnh. Tuy nhiên, nếu Thiên Phủ đóng ở Mệnh cung, dễ phát triển thành gian trá, phù thịnh.

So sánh với Tử vi, Thiên Phủ là Nam Đẩu và Tử vi là Bắc đẩu. Tử vi chủ lãnh dạo, chủ phát tán và chủ quý. Trong khi đó, Thiên Phủ chủ cất giấu, chủ phú và chủ giữ gìn cơ nghiệp, nói một cách tương đối là đầy đặn. Trừ khi Thiên Phủ gặp cách xấu đặc biệt (gặp sát tinh chẳng gặp Lục Cát, lại chẳng gặp Khoa Lộc, gặp toàn sao tạp bất lương) thì không dù có gặp "gian" cũng chẳng lộ ra là "gian".

Lời bàn: Tính cách của Thiên Phủ được cho là ôn hòa và hài hòa, mặc dù sức mạnh của nó không bằng Tử Vi nhưng vẫn là chủ tinh. Do đó, có lập luận rằng Quần thần hội hợp rất quan trọng và sắc bén. Tuy nhiên, trong đoạn văn này, lập luận về tính "gian" của Thiên Phủ là hoàn toàn mới mẻ và cần được xem xét cẩn thận. Cổ nhân xưa cho rằng Thiên Phủ ôn hòa, vì vậy nếu nói rằng "nhược cư vu mệnh cung, tắc khả năng phát triển vi gian trá, xu viêm phụ thế" thì có vẻ hơi cưỡng ép. Mặc dù Thiên Phủ có tính "phù thịnh bất phù suy", nhưng chưa chắc đã phát triển thành tính "gian trá". Do đó, điều này cần được xem xét cẩn thận.

Bàn thêm về sao Thiên Phủ

Người có Thiên Phủ nhập Mệnh sẽ có tướng mạo thanh kỳ, thân hình trung bình, mặt hình vuông và dáng người béo tốt đầy đặn. Tính cách của họ thường ôn hòa, ổn trọng, đứng đắn, tinh thần viên mãn, không câu nệ tiểu tiết, có tình nghĩa và sự cảm thông, nhiều bạn bè tri kỉ, có thể gây dựng được sự tin tưởng và cuộc sống thường được quý nhân tương trợ.

Tuy nhiên, người có Thiên Phủ cũng có thể có tâm trạng bằng lòng yên vị với hiện trạng, thiếu sự khai sáng và xung kích lực, phấn đấu đến một mức độ nào đó rồi lười biếng từ bỏ. Họ có dục vọng về quyền lực, yêu thích tiền bạc và sự sung túc, hội lục cát tinh, trung hậu lương thiện trọng tình cảm. Tuy nhiên, họ cũng có thể đảm nhận các công việc quan trọng về tài chính kinh tế hay làm quản lý.

Nếu là nữ mệnh Thiên Phủ, họ thường có khí chất của quý phu nhân, thân thể hơi béo, sau trung niên đa phần mập mạp. Họ dịu dàng, có sự cảm thông, là người ổn trọng, không xử trí theo cảm tính, hành sự lý trí và giỏi xử lý các quan hệ ngoại giao.

Sao Thái Âm

Quan điểm của Vương Đình Chi:

Thái Âm thuộc về hành Thủy, là sao ở vị trí trung thiên, chủ tinh của người sinh vào ban đêm. Thái Âm có tác dụng tốt khi xuất hiện tại các cung Dậu, Tuất, Hợi, Tý và Sửu, đặc biệt là hợp với người sinh vào ban đêm. Nếu người sinh vào ban ngày lại có Thái âm lạc hãm, thì tức là không hợp.

Thái Dương chủ phát tán, chủ quý, còn Thái Âm thì chủ thu giấu, chủ phú. Tuy nhiên, Thái Âm cũng bao gồm ý nghĩa của Tài Tinh, nhưng khác với Vũ Khúc. Vũ Khúc thường được sử dụng để cầu tài, trong khi Thái Âm thì mang tính chất phụ tá và thường được sử dụng trong kế hoạch. Thái Âm có thể nắm giữ quyền lực tài chính, nhưng cần sự trung hòa. Khi Thái Âm cư trú ở cung hãm và được Tả Hữu Khúc Xương Lộc Quyền tương hội thì vẫn là tốt. Nếu Thái Âm miếu vượng và được cát tinh hội tụ thì Hóa Kỵ không thể gây hại được.

Tuy nhiên, tổ hợp của Thái Âm không ổn định. Nếu gặp Xương Khúc thì sẽ trở nên bất ổn và bị tình cảm lãnh đạo. Nếu gặp Sát Tinh thì có thể trở thành trò đùa của quyền lực. So với Thái Dương, Thái Dương chủ động, chủ phát xạ, chủ truyền bá và chủ quý. Còn Thái Âm chủ tĩnh, chủ thu nhận và chủ phú. Nếu quá thu nhận, người có Thái Âm sẽ trở thành người nhiều tâm kế, lòng dạ thâm sâu, khác biệt so với Thái Dương. Thái Dương tỏa sáng, tỏa nhiệt một cách tự nhiên, trong khi Thái Âm được chiếu sáng bởi Thái Dương. Nếu không có Thái Dương chiếu đến, Thái Âm sẽ tối đen như mực.

Lời bàn:Trong đoạn này, Vương tiên sinh đã dựa trên tính chất Âm-Dương của hai sao Thái Âm và Thái Dương để đưa ra luận điểm. Theo quan niệm của Vương tiên sinh, Thái Âm được coi là Tài tinh vì tính Thu liễm của nó, do đó Thái Âm có tính tham lam hơn và ít quảng bác hơn Thái Dương. Vương tiên sinh đã đưa ra hai quan điểm trong đoạn văn này. Thứ nhất, ông cho rằng Thái Âm cần phải có sự ảnh hưởng của Thái Dương để trở nên huy hoàng hơn. Thứ hai, ông cho rằng "Thái Âm miếu vượng thì Hóa Kỵ không làm gì được", đây là điểm khác biệt của Trung Châu Phái khi an Hóa Kỵ cùng với Thái Âm cho tuổi Canh. Mặc dù điều này vẫn còn tranh cãi, nhưng có thể kết luận rằng, cho dù An Hóa Kỵ hay Hóa Khoa kết hợp với Thái Âm, thì tuổi Canh gặp cách này vẫn là đẹp.

Bàn thêm về sao Thái Âm

Người có Thái Âm nhập Mệnh thường có ngoại hình trung bình, hơi béo, da trắng sáng và khuôn mặt vuông tròn. Họ có tính cách dịu dàng, thanh tú, cương trực, thông minh và tuấn tú. Họ có khí chất tốt, đoan chính, khiêm tốn và lễ độ, suy nghĩ tinh tế và biết cách cư xử thích hợp trong giao tiếp, tránh xung đột chính diện và xử lý tốt các mối quan hệ.

Người có Thái Âm nhập Mệnh thường có sự đam mê với văn học nghệ thuật, có khả năng viết tốt và học nhiều lĩnh vực khác nhau. Họ ưa sạch sẽ và chú ý đến sự thú vị của cuộc sống, và theo chủ nghĩa duy mỹ. Họ thường thích tĩnh lặng và có hứng thú với triết học, tâm lý học, mỹ học và thần bí học. Họ có xu hướng suy nghĩ kĩ càng, giàu trí tưởng tượng và tư duy siêu thực, thậm chí nhiều lúc có xu hướng đa sầu đa cảm.

Người có Thái Âm nhập Mệnh thường có tưởng tượng lãng mạn về cuộc sống, nhưng có thể không đồng ý với những thay đổi. Cả nam và nữ đều có duyên sắc sắc với người khác giới và dễ phạm đào hoa. Họ phong lưu, hào phóng, nho nhã và trực tính, dễ thân thiết với nữ giới. Tuy nhiên, khi cùng với sát tinh thì không nhất thiết phải như vậy.

Nữ mệnh có mắt ngọc mày ngà và dung mạo đẹp đẽ, mềm mại như thương, khiến nam giới phải đắm say.

Sao Tham Lang

Quan điểm của Vương Đình Chi:

Tham Lang thuộc Dương Mộc, khí thuộc Thủy, được ví như Tình Dục và Vật Dục, hay còn gọi là Chính Đào Hoa. Nếu được chế hóa, Tham Lang vẫn có thể mang lại hiệu quả tốt. Khi được chế hóa, sự cân bằng giữa Tình Dục và Vật Dục được đặt lại, và nếu kết hợp với Cát Tinh thì sẽ đạt được thành tựu cao đẹp. Tuy nhiên, nếu không được chế hóa và gặp sát tinh hội hợp, không cần biết là thiên về Tình Dục hay Vật Dục, đều có khuyết điểm.

Hóa Lộc có thể gia tăng Vật Dục, trong khi Hóa Kỵ lại giảm bớt dục vọng. Nếu Tham Lang được chế hóa như Tả Hữu Xương Khúc hoặc Hỏa Linh, và kết hợp với Cát Tinh và Cát Hóa, thì có thể trở thành đại tướng, uy chấn biên cương. Liêm Tham ngộ Không, Thiên Hình, và Hóa Kỵ nếu được chế hóa, có khả năng phát huy tiềm năng nghệ thuật, biến thơ rượu phong lưu thành văn nghệ, nghệ thuật. Nếu không được chế hóa và gặp Kình Dương hoặc Đà La, thì có thể rước họa vì sắc.

Tham Lang cũng là chủ biến, nhưng biến của nó là "đổi thang mà không đổi thuốc" (chỉ thay đổi cái vỏ bề ngoài mà bản chất thì không đổi), mượn màu son phấn để che giấu toan tính. Tham Lang cũng là một tay giao tiếp đối đáp thiện nghệ, nhưng phần lớn ứng đối của nó là ở tửu sắc phong lưu. Nó cũng đôi khi thích các sự vật thần bí, thuộc loại quỷ quỷ quái quái, nhưng sở thích của nó là loại đông tây thần bí, không phải là nghiên cứu chuyên sâu. Dựa trên tính chất tương đối của Tham Lang, nếu gặp được Xương Khúc, Ngộ Không, và Thiên Hình, thì có thể phát huy tiềm năng nghệ thuật của Tham Lang.

Lời bàn:Vương tiên sinh đã đưa ra nhận định về cách chế hóa sao Tham Lang trong từng trường hợp. Tuy nhiên, theo chuyên gia, Vương tiên sinh không đặt nặng tính chất về tài khí của Tham Lang, ngay cả khi gặp Hỏa linh. Điều này khác với quan điểm truyền thống. Điều đáng chú ý là Vương tiên sinh cho rằng Thiên Hình có thể chế giải được tính dâm của Tham Lang, điều này cũng cần được xem xét kỹ lưỡng.

Bàn thêm về sao Tham Lang

Những người có chính tinh này thường có thân hình béo, đứng thẳng, xương mày cao và lạc hậu thấp. Tiếng nói của họ thường to và ồn ào. Những người có Tham Lang nhập Mệnh thường có tính cách phức tạp, không ổn định và hiếu động. Họ thường thích giao tiếp và kết bạn, có tính cách lạc quan và đam mê vật chất. Họ không quá quan tâm đến việc giữ gìn tiểu tiết và có tình cảm thăng trầm. Họ thường khoe khoang và thích thổi phồng, có tính hích đầu cơ và mạo hiểm. Họ thường rộng rãi và lãng phí về tiền bạc. Họ thích được kích thích và không vừa lòng với cuộc sống bình thường. Nếu là nữ mệnh, họ thường có thân hình gợi cảm và sức thu hút, tính dục cao và chí cao tính cương.

Sao Cự Môn

Quan điểm của Vương Đình Chi:

Cự Môn là một trong những sao thuộc mệnh Thổ và khí thuộc mệnh Kim, đồng thời là sao thứ hai trong chòm Bắc Đẩu. Trong đẩu số, Cự Môn được coi là ám tinh và yêu cầu phải có sự hội chiếu của Thái Dương miếu vượng hoặc Lộc Quyền hội hợp để giải được tính ám của nó. Nếu không có sự hội chiếu này, Cự Môn có thể mang lại những rắc rối và nghi kỵ cho người mang mệnh này.

Cự Môn còn được ví như tài ăn nói, nếu cát thì nói hay, giỏi biện, nếu hung thì ăn nói giảo hoạt. Tuy nhiên, năng lực đối kháng sát tinh của Cự Môn rất yếu, cho nên cần phải tránh xa sát tinh và cải hóa được Cự Môn bằng cách sử dụng Hóa Lộc và Hóa Quyền. Nếu được cách cục thích hợp phối hợp, Cự Môn có thể trở thành nghề nghiệp như luật sư hoặc diễn thuyết gia, với khả năng truyền bá và tiếp thị tài ba, giúp người mang mệnh này phát triển và thành công trong sự nghiệp.

Tuy nhiên, Cự Môn cũng biểu trưng cho chướng ngại lớn và che lấp mọi thứ. Trong cuộc đời, người mang mệnh này có thể trải qua những giai đoạn gian khổ hoặc thương tâm, hoặc có xu hướng dùng ngôn từ che giấu sự thật và thích tranh luận. Tuy nhiên, nếu được học thức và sức biểu đạt tốt, Cự Môn có thể trở thành người ăn nói rất tốt và giúp người mang mệnh này thành công trong sự nghiệp.

Trong thời đại hiện đại, Cự Môn được đánh giá cao hơn so với thời cổ đại, bởi vì khả năng ăn nói linh hoạt là yếu tố quan trọng trong nhiều lĩnh vực, từ cạnh tranh tổng thống đến tiếp thị sản phẩm. 

Lời bàn:Vương tiên sinh đánh giá rất cao khả năng ăn nói của Cự Môn vì nó phù hợp với xã hội hiện đại. Tuy nhiên, để Cự Môn thực sự tốt, cần phải đắc cách hội Quyền Lộc và Xương Khúc. Vương tiên sinh cũng nhận định rằng "Trong đời người có thể có một giai đoạn gian khổ đối với lịch trình, hoặc một giai đoạn thương tâm đối với chuyện cũ" là một lời phân tích sắc bén. Tuy nhiên, chưa thấy Vương tiên sinh phân tích về tính Tài khí của Cự Môn.

Bàn thêm về sao Cự Môn

Người có Cự Môn nhập Mệnh thường có những đặc điểm như sau:

  • Về ngoại hình, họ có ánh mắt sắc bén, miệng nổi bật, mặt hình vuông tròn, nhập miếu thân hình to béo, đôn hậu thanh tú, lạc hãm thì ngũ đoạn (tay chân cổ…) gầy nhỏ, giọng cao mà tốc độ nhanh. Cử chỉ tùy tiện, không chú ý đến lễ nghi.

  • Về tính cách, họ có khả năng phân tích và liên tưởng rất xuất sắc, có tài biện luận, không bằng lòng với hiện trạng, tính tình khá ngoan cố, tự tin, tâm lý nghi ngờ lớn, không quá tin tưởng người khác, việc gì cũng phải tra hỏi rõ ràng đến cùng, thích có được những thông tin đích thực rút ra từ thực tiễn.

  • Về sự nghiệp, họ thường thích hợp làm những công việc nói là chủ yếu, giỏi xử lý các mối quan hệ công cộng, lời lẽ có phần giả dối, giỏi thổi phồng, là nhân tài trong việc ngoại giao. Cuộc sống vất vả, sau khi vất vả phấn đấu có thể có thành tựu.

  • Tuy nhiên, họ không coi trọng những tình tiết trong cuộc sống, cuộc sống vật chất chỉ cần sống được là sống, thích nghiên cứu học vấn kĩ thuật, học nhiều mà tinh thông ít, có những kiến giải đặc biệt với những gì quan sát được, kĩ tính, lòng dạ sắt đá, tự tư tự lợi, khả năng cảm thông kém, suy nghĩ quá nhiều vì vậy làm việc luôn do dự không dứt khoát.

  • Về mối quan hệ, họ không hòa thuận với người khác, nhìn chung một đời thường hay rước thị phi khẩu thiệt, quan hệ giao tế không tốt, dễ làm tổn thương người khác. Bụng dạ hẹp hòi, thích làm lớn những vấn đề nhỏ, khi nói chuyện thường vô tình đắc tội với người khác, cũng thích bắm chặt không tha những khuyết điểm sai lầm của người khác, thiếu sự khoan dung, khi lợi ích của bản thân bị xâm phạm thì bất luận chuyện lớn hay bé đều nổi trận lôi đình, hơn nữa cũng dễ gây hiểu lầm cho người khác, một đời thị phi không dứt, tranh chấp trong tối ngoài sáng liên miên, rất nhiều kẻ tiểu nhân, khó mà có thể sống những ngày tháng yên bình.

Tóm lại, người có Cự Môn nhập Mệnh thường có tính cách nghi ngờ, khó tin tưởng người khác, và có xu hướng làm việc do dự không dứt khoát. Họ có khả năng phân tích và liên tưởng rất xuất sắc, nhưng lại thiếu sự khoan dung và cảm thông. Mặc dù có thể đạt được thành tựu trong sự nghiệp, nhưng họ thường gặp khó khăn trong mối quan hệ với người khác và có xu hướng rước thị phi khẩu thiệt.

Sao Thiên Tướng

Quan điểm của Vương Đình Chi

Thiên Tướng là một trong những chính tinh thuộc dương thủy, nằm ở vị trí thứ hai trong chòm Nam đẩu và hóa khí lá Ấn tinh. Thiên Tướng được ví như cái ấn đeo của Hoàng Đế, nếu ở trong tay Hoàng đế anh minh thì là cứu tinh của nê dân, nhưng trong tay Hôn quân bạo chúa thì tàn hại bách tính và giúp cho phường hung bạo. Bản chất của Thiên Tướng là gặp Cát thì Thiện, gặp Hung thì Ác. 

Thiên Tướng hoàn toàn chịu hoàn cảnh của bên ngoài mà biến hóa, khi luận đoán phải hết sức cẩn thận. Trong Tứ Sát, Thiên Tướng sợ nhất Hỏa Linh, cho nên có thuyết nói rằng “Thiên tướng Hỏa linh trùng Phá, tàn chướng” – (Thiên tướng Hỏa linh mà gặp Phá, tàn tật), có khả năng có cố tật, hoặc thân thể yếu đuối nhiều bệnh tật. Để đoán sự cát hung của Thiên Tướng, cần xem xét Lân cung (hai cung bên cạnh bản cung), như Cự Môn Hóa Kỵ giáp bên sẽ thành cách “Hình Kỵ giáp Ấn” (do Thiên Lương là Hình) – không tốt. Như Cự Môn Hóa Lộc, là cách “Tài Ấm giáp Tướng” (Thiên Lương là Ấm), là một kết cấu đẹp của Thiên Tướng. Đương nhiên vẫn chủ yếu là xem sự phân bố của Lục Cát, Lục sát mà đoán định. 

Một đặc trưng lớn nhất của Thiên Tướng là “không có tính cách” (đây là một thuật ngữ dùng trong luận đoán, không có nghĩa là người có Thiên Tướng thủ mệnh không có tính cách). Cho nên trong mười bốn chính tinh, chỉ có Thiên Tướng là rất coi trọng Lân cung, bị ảnh hưởng rất mạnh từ hai cung bên cạnh bất luận là Hình Kỵ giáp, Tài Ấm giáp, hay Dương Đà giáp. Giáp Hỏa Linh, giáp Khoa Quyền, cũng như giáp Khôi Việt … đều có ảnh hưởng mạnh đến Thiên Tướng. Tại lá số mà Thiên Tướng gặp cách giáp cung, đôi khi lại biểu hiện tính cách không thể làm chủ bản thân, như vẫn nói là “hình thể giống người mạnh” (thành ngữ – ý nói về cái hình thì trông giống người mạnh, mà không phải là mạnh). 

Thiên Tướng cũng có tính chất tương tự như Thiên Cơ. Đều dựa phần nhiều vào phụ tá.

Lời bàn: đoạn luận về Thiên tướng của Vương tiên sinh chưa thực sự sắc xảo. Có thể Vương tiên sinh quá coi trọng sự ảnh hưởng của Lân cung đến Thiên Tướng. Tuy nhiên, các quan điểm của Vương tiên sinh thường trái ngược với những nhận xét của cổ nhân về Thiên tướng. Theo "đẩu số toàn thư", Thiên Tướng được xem là Ấn tinh, biểu thị cho uy quyền và tài lộc. Tính cách của Thiên Tướng được miêu tả là "gặp người khó thì động lòng trắc ẩn, gặp kẻ ác thì nổi sự bất bình". 

Tuy nhiên, tính cách này không thể hiện rõ ràng lắm. Về cách cục của Thiên tướng, các nhận xét của Vương tiên sinh chưa thuyết phục được. Ví dụ như cách Hình Kỵ giáp Ấn mà bảo rằng Thiên Lương là Hình thì thật là chưa chính xác vậy. Bản chất của Hình Kỵ khi giáp Ấn không phải do Ấn tinh tạo nên, mà bất cứ sao nào khi gặp các cách GIÁP như Giáp hình kỵ, Giáp Dương Đà, Giáp Không Kiếp cũng đều xấu vậy, không chỉ có Thiên tướng. Ngoài ra, một đặc tính về Tài của Thiên tướng chưa được nhắc đến. Tướng và Phủ luôn trong tam hợp, cho nên mới có câu "Phủ Tướng triều viên, nãi vi y lộc chi thần", là thần của y lộc. Điều này cũng có thể là một thiếu sót trong đoạn luận của Vương tiên sinh.

Bàn thêm về sao Thiên Tướng

Người có Thiên Tướng nhập Mệnh có những đặc tính tốt đẹp như chín chắn, sắc mặt trắng xanh hoặc vàng nhạt, khuôn mặt vuông tròn, thân hình trung bình, nhập miếu đầy đặn béo tốt, thích ăn nhậu và vật chất đầy đủ. Họ có tính cách chân thật, không giả dối, động lòng xót xa khi thấy người khác khó khăn và bất bình khi thấy kẻ ác. Họ có lời nói cẩn thận, suy nghĩ chu đáo và lòng chính nghĩa. Họ có quan hệ xã giao tốt đẹp, đối xử với mọi người chân thành, khiêm tốn lễ độ và giúp đỡ mọi người thường xuất phát từ tấm lòng chứ không tính toán chuyện báp đáp. Họ có lòng dạ lương thiện, ôn hòa, khoan dung, làm việc chăm chỉ, có năng lực quản lý và xử lý nghiệp vụ tốt, có thể hi sinh lợi ích bản thân để phục vụ đại cục. Họ thích làm các công việc phò trợ người khác và thích ở lì trong nhà. 

Tuy nhiên, người có Thiên Tướng nhập Mệnh cũng có khuyết điểm là quá cẩn thận, suy nghĩ quá nhiều, thiếu sự thực tế và sự khai thác, bằng lòng với hiện tại, vì vậy thích hợp làm các công việc thư ký hay phía hậu trường. Họ không quá giỏi kinh doanh và thường lọt vào tay người khác nếu không nắm bắt cơ hội ngay. Nếu muốn kinh doanh, họ cần trở thành thương gia lương thiện. Nữ mệnh Thiên Tướng có tính cách dịu dàng hướng nội, nội tâm tốt đẹp, dung mạo đoan trang ổn trọng, da dẻ nhẵn nhụi, lễ phép nhã nhặn, không tính toán với người khác, không quá coi trọng sự nghiệp, không thích khoe khoang và bàn chuyện không đâu. Họ thích hợp cùng chồng dạy con, là vợ hiền mẹ tốt và vật chất như ý.

Sao Thiên Lương

Quan điểm của Vương Đình Chi

Thiên Lương là một trong những ngôi sao thuộc Dương Thổ và nằm ở vị trí thứ ba trong chòm Nam đẩu. Hóa khí của Thiên Lương là ẤM TINH, nhưng cũng có tính chất HÌNH TINH. Nguyên nhân của việc Thiên Lương hóa khí là Hình tinh là do nó có tính chất “cương khắc cô kỵ”. Nếu gặp Thiên Hình cung Kình Dương, tình cương khắc sẽ mạnh lên, vì vậy cách này không tốt. 

Tuy nhiên, Thiên Lương cũng có tính chất của cái bóng che chở, tức là ẤM. Ấm tức là cái bóng che chở của cha mẹ, bề trên, bởi Lương là biểu trưng của Phụ Mẫu. Tính chất Ấm có tiêu tai đặc trưng lớn nhất là “tiên phá hậu lập”, trước đắng mà sau mới có vị ngọt. Tuy nhiên, trước phải có tai vạ thì sau mới phát huy được tính chất của Thiên Lương. Cuối cùng, cái Hung cũng sẽ tiêu tán hết, nhưng độ biến hóa họa phúc của đời người quá lớn, cũng không phải là điều tốt. 

Thiên Lương rất tốt nếu gặp Hóa Lộc hoặc Hóa Khoa, lúc ấy sẽ biểu hiện mạnh mẽ tính chất tốt đẹp lương thiện của Thiên Lương. Nếu được Phụ Bật Xương Khúc cùng hội hợp thì lại càng có khả năng phát huy cái tình chất “ẤM” của Thiên Lương, càng về sau càng mạnh. Thiên Lương có khả năng tiêu tai giải khó, sở dĩ Thiên Lương cũng hay làm nên cái sự “tiêu tai” là bởi Thiên Lương chủ quý, nên có thể hóa khí thành khoa tinh. 

Trong cách cục Thiên Lương – Hình Kỵ, cái ánh sáng màu sắc của Thiên Lương Hình Kỵ thì ít, mà cái sự âm u của Thiên Lương Hình KỴ thì nhiều. Tuy nhiên, nếu được Thái Dương miếu vượng chiếu rọi thì Thiên Lương sẽ tỏa sáng. Nếu gặp được Thái m, Thiên Lương cũng tốt nhưng sẽ trở nên thâm trầm, nội liễm. Nếu không có những yếu tố trên, Thiên Lương sẽ trở nên lén lén lút lút, soi mói bắt bẻ, không hợp với người khác. Lúc này sẽ phát huy đầy đủ cái tính Hình của Thiên Lương.

Lời bàn: Vương tiên sinh đã giải thích rất rõ về việc Thiên Lương hóa khí là Hình Tinh. Ông cho rằng Thiên Lương có tính chất Cương-Khắc-Cô-Kỵ, tuy nhiên, quan điểm này không được rõ ràng trong các tài liệu. 

Tuy nhiên, Vương tiên sinh rất coi trọng cách Thiên Lương gặp Hình Kỵ, đây có lẽ là quan điểm riêng của ông và cũng là một điều cần chiêm nghiệm. Tính chất của Thiên Lương cũng như bất kỳ sao nào khác đều phụ thuộc vào sự miếu hãm của nó, không chỉ có đắc cách như Vương tiên sinh nhận xét. Vương tiên sinh luận rằng "tiên phá hậu lập" rất xuất sắc, bởi vì Lương là Ấm tinh, vốn là thừa hưởng của tiền nhân để lại. Việc Lương gây nên sự biến đổi họa phúc lớn của đời người, tuy nhiên, cần xem xét thêm các điều kiện khác để đánh giá chính xác hơn.

Bàn thêm về sao Thiên Lương

Ý Nghĩa 14 Chính Tinh Trong Khoa Tử Vi
Người có sao Thiên Lương nhập Mệnh sẽ có vẻ ngoài ổn trọng khiêm nhường, từ bi, gương mặt dài vuông, xương gò má cao, lưng hơi gù, hơi béo. Họ thanh tú, thông minh chính trực, không tư lợi và hay lo chuyện thiên hạ. Họ thường giúp đỡ người khác làm vui hoặc giúp đỡ những người kinh tế khó khăn. 

Người này có tính cách quang minh lỗi lạc, quyết đoán và xử lý việc luôn đứng trên lập trường công bằng, không thiên vị và thận trọng. Họ có phong thái của người lớn tuổi và thường nhận được sự kính trọng của mọi người. Họ thích khoe khoang và thường giúp người khác giải quyết tranh chấp, nhưng cũng gặp hiểu lầm và làm ơn mắc oán. 

Người có sao Thiên Lương nhập Mệnh thường có tâm tính nhân nghĩa từ bi, có sự nghiên cứu và hứng thú với y học thuốc thang, đặc biệt có duyên bẩm sinh với trung y, đông dược, thuật số tôn giáo. Tính tình của họ thanh cao, coi thường chuyện tiền bạc và không quá tính toán chuyện được mất. Họ có tài cán và lòng dạ rộng rãi, nhưng cũng có điều tính háo thắng và dục vọng về quyền lực và lãnh đạo. Đa phần thường có vài phần ngạo mạn, vẻ mặt người ở trên cao và phẩm hạnh của người già. 

Tư tưởng của họ chính thống, kiên trì với nguyên tắc và không chịu dễ dàng chấp nhận sai sót khuyết điểm của bản thân. Nếu là nữ mệnh Thiên Lương, bạn sẽ có dung mạo đoan trang, mắt dài mũi thẳng, ôn hòa chính trực và sống trọng tình nghĩa. Bạn trong nhu có cương, nhiệt tình và thích giúp đỡ người khác. Nếu bạn nhập miếu hội cát tinh, bạn sẽ có nhiều tài nghệ và phú quý song toàn. 

Nếu bạn hội Xương Khúc, bạn sẽ có tài hoa văn nghệ. Nếu bạn hội Tả Hữu, bạn sẽ chính trực khoan dung trung hậu, giúp người làm vui và cùng chồng dạy dỗ con cái. Nếu bạn hội Dương Đà Hỏa Linh, bạn sẽ có tính cách cô khắc, rước thị phi và không thuần khiết.

Sao Thất Sát

Quan điểm của Vương Đình Chi

Thất sát là một trong những ngôi sao thuộc âm kim, đứng ở vị trí thứ 5 trong chòm Nam đẩu và được coi là chiến tướng trên trời. Thất sát có tính cách cương khắc và là kẻ xung phong hãm trận, giết giặc trên chiến trường. Vì vậy, khi Thất sát gặp Hình Kỵ, sẽ tạo ra sự cô độc và khắc nghiệt. 

Nếu Thất sát hội thêm sát tinh nữa, đời người sẽ càng thêm gian khổ. Để chế được tính cương khắc của Thất sát, chỉ có Lộc tinh ở Tỵ mới có thể hội hợp và hóa giải được tính cách này. Hóa Lộc hay Lộc tồn đều tốt và có thể biến tính cương khắc của Thất sát thành chuyên nghiệp hoặc công nghệ. 

Trong xã hội hiện đại, người chuyên nghiệp tương đương với khái niệm giàu có. Ngoài Lộc tinh, Tử vi cũng có thể chế hóa tính ác của Thất sát. Tử vi được gọi là "hóa sát vi quyền" và khi Thất sát và Tử vi gặp nhau hoặc đối cung với nhau mà được quần thần cùng hội vào và tránh được sát tinh phá phách thì mới là hợp cách. Tương tự như Đại tướng nhận lệnh của Để tọa, nếu lại hội thêm được Lộc tinh thì phú quý khỏi phải bàn. 

Nếu có sát tinh trùng phá, thì khả năng là sẽ trở thành mệnh của một nhà công nghiệp. Thất sát là tướng quân, trực tiếp nhận mệnh của hoàng đế xuất ngoại đánh trận, nhưng phía sau có quân quyền, hoàn toàn phụ thuộc vào chuyện quân lương mà thành sự. Vì vậy, Thất sát rất cần gặp Lộc (rất tốt nếu gặp cả song Lộc). Tuy nhiên, vì Thất sát là đại tướng nên ưa độc đoán độc hành, nên Tả Hữu Xương Khúc đối với Thất Sát không quan trọng lắm. Tương tự như Vũ Khúc, Khôi Việt tương đối quan trọng đối với Thất sát. Thất sát và Tham Lang đều là chủ BIẾN, nhưng phúc độ của Sát lớn hơn Tham Lang.

Lời bàn: Đối với Thất Sát, tính CƯƠNG KHẮC là điểm quan trọng cần được lưu ý. Vương tiên sinh đã phân tích rằng không nên gặp Hình Kỵ vì sợ quá cô khắc, nếu gặp thêm sát tinh thì đời người sẽ càng thêm gian khổ. Lý luận của Vương tiên sinh rất sắc bén, và cổ nhân đã có câu “Thất Sát – Thiên Hình, cương táo nhi cô”, tức là Thất Sát khi gặp Thiên Hình sẽ trở nên cứng rắn, khô khan và cô độc. Điều này sẽ khiến cuộc đời trở nên khó khăn và gian truân. 

Tuy nhiên, để đưa ra lập luận chính xác về Thất Sát, cần phải dựa trên tính lý của Sát mà luận, chứ không chỉ căn cứ vào việc Sát là chiến tướng để phân tích. Nếu chỉ dựa trên những suy đoán không có căn cứ, sẽ dễ dẫn đến những kết luận sai lầm. 

Ngoài ra, cần xem xét thêm luận điểm cho rằng Lộc tinh có thể giải trừ được tính cương khắc của Sát. Tuy nhiên, điều này chưa hẳn đúng lắm, bởi Lộc tinh có thể biến cái sự sát phạt của Thất sát thành tài phú, nhưng tính cương cường của Sát thì khó lòng mất đi được. Trong xã hội hiện đại, tiền bạc có thể đánh bóng con người, nhưng tính cương khắc của tinh diệu thì khó lòng cải biến được. Do đó, cần suy ngẫm kỹ trước khi đưa ra quyết định liên quan đến Thất Sát.

Bàn thêm về sao Thất Sát

Người có Thất Sát nhập Mệnh thường có những đặc điểm như mắt to, xương mày nổi bật, mắt có vẻ uy nghiêm, khuôn mặt vuông dài hoặc gầy dài, có nếp nhăn, trên mặt có nhiều vết đốm hoặc rỗ. Thân thể có thương tích, nhập miếu béo, lạc hãm thì gầy nhỏ, vẻ ngoài tháo vát pha lẫn sức khỏe. Hành vi của họ thường phóng khoáng ngang tàng, không câu nệ tiểu tiết, tốc độ đi nhanh. 

Tính cách của họ thường rất hiếu thắng, quật cường cứng rắn, có sự tự chủ độc lập, có khí khái bất khuất, tính tình dữ dội, dễ nổi cáu, hỉ nộ ái ố thể hiện trên khuôn mặt. Họ không thích bị người khác can thiệp ràng buộc, sự độc lập lớn, dũng cảm, có dũng khí và sự thực hành, đối mặt với khó khăn sẽ dũng cảm tiến về phía trước, tuyệt đối không sợ hãi.

Họ thường thích đầu cơ mạo hiểm, không sợ không làm được, chỉ sợ không nghĩ ra, trong cuộc sống là kiểu người khai sáng tiến công. Họ có mưu lược, có năng lực lãnh đạo thống lĩnh tốt, chỉ có điều tính tình quá gấp gáp, thường bực tức, dễ coi cấp trên là vô dụng, nên có tâm lý phạm thượng, đối với cấp dưới, bạn bè thì tương đối khoan dung. 

Thành bại một đời thường đến rất đột ngột, bất luận nam hay nữ, đều phải trải qua khó khăn mới có thành tựu. Nếu là nữ mệnh Thất Sát, thì tính cách của họ thường hướng ngoại, hoạt bát hào phóng, có khí chất, tính cương, làm việc già dặn, có tinh thần trượng nghĩa, thích giúp người, thuộc loại hình của công việc, không có hứng thú gì với chuyện làm vợ hiền mẹ tốt, sau khi kết hôn tất đoạt quyền chồng, chồng phải nghe lời vợ.

Sao Phá Quân

Quan điểm của Vương Đình Chi

Phá quân là sao thứ 7 trong chòm Bắc đầu, thuộc dương Thủy. Tính chất của sao này được xem như là "chiến tướng", tương tự như Thất sát, nhưng khác biệt ở chỗ Phá quân là tiên phong, trong khi Thất sát là tướng. Do đó, Phá quân hóa khí là Hao. Phá quân có tính chất "năng công bất năng thủ", phù hợp với thế tiến công hơn là phòng thủ. Vì vậy, Phá quân tọa mệnh so với Thất sát có tính "động" nhiều hơn. 

Tuy nhiên, dù cho hội được tử vi thì cũng không thể vì thế mà "hóa phá vi quyền". Tử vi dùng Phá quân thành quyền tinh được, nhưng ngược lại, tính động của Phá quân còn làm ảnh hưởng đến tính ổn định của Tử vi. Phá quân gặp sát tinh mà không có cát tinh phù trợ, có thể bị hình thương trên thân thể. Vì vậy, Phá quân tốt nhất là bản thân Hóa lộc, tốt nhì là hội được Lộc. Khi đó, sẽ cải thiện bản tính động. 

Với Hóa quyền cũng có thể tương tự như trên nhưng không tốt bằng Hóa lộc. Nếu được phụ tá tinh và cát tinh hội chiếu, tránh được sát tinh thì là tổ hợp tốt nhất cho Phá quân. Khi đó, Phá Quân có thể vừa "công", vừa "thủ", gặp vận đích thực là chiến tướng, cách cục này không phải nhỏ. Phá Quân cũng là chiến tướng, nhưng so với Thất Sát thì kém một bậc. Sở dĩ Thất Sát có thể thụ mệnh Hoàng Đế một cách đường đường chính chính, nhưng Phá Quân mà trực tiếp thụ mệnh Hoàng Đế liền có điểm không hợp. Vì thế, tổ hợp Tử Vi Phá Quân tốt đẹp khi tính chất ổn định của Tử Vi được duy trì. 

Nếu không có Lộc thì Phá quân như chiến tướng bị hao tổn, không có hậu phương, chung cuộc cũng bại hoặc bị hạ thấp. Chính vì vậy, muốn phòng trừ việc "chiến tướng bị hao tổn", quan trọng phải tập trung tâm lực vào chỉ một việc. Phá Quân thủ mệnh không thể là người nhàn nhã, lắm ý niệm.

Lời bàn: Việc đánh giá Phá Quân cũng gặp nhiều tranh cãi và quan điểm khác nhau. Tuy nhiên, theo chuyên gia này, Phá Quân khổng hẳn thê và không phù hợp để sử dụng trong việc phá hóa Quyền. Điều này bởi vì Phá Quân có tính phản nghịch và không hợp tác với bất kỳ nhóm nào. Trong khi đó, Thất Sát chỉ là "thừa hành chính lệnh" và dễ dàng hợp tác hơn. Tuy nhiên, trong trường hợp Văn tinh, Phá Quân có thể được sử dụng nếu được hội nhiều cát tinh mới quý. 

Ngoài ra, Phá Quân thường được sử dụng trong thời loạn hơn là lúc yên ổn. Tuy nhiên, việc sử dụng Phá Quân cần được xem xét kỹ lưỡng và phải được sát tinh đắc cách phò trợ mới tốt. Cuối cùng, chuyên gia tử vi cũng nhấn mạnh rằng việc sử dụng Phá Quân đắc sát tinh có thể mang lại lợi ích ngắn hạn, nhưng sẽ phải trả giá trong tương lai. Do đó, cần phải cân nhắc kỹ lưỡng trước khi sử dụng Phá Quân.

Bàn thêm về sao Phá Quân

Phá Quân nhập Mệnh thường có những đặc điểm như lưng dày, mày khoan, eo nghiêng, tiếng nói sắc bén, động tác nhanh, không coi trọng lễ nghĩa, thích ăn vặt và thái độ thiếu ổn trọng. Họ có thân hình ngũ đoản, hơi béo, hãm địa cao gầy, và có thể phá tướng hay mặt có lốm đốm. Cá tính của Phá Quân đặc biệt kiêu ngạo, không khuất phục hay chịu sự quản thúc của ai, hỉ nộ vô thường, thích ham muốn hưởng thụ vật chất, thích săn bắt thú, tính tình cương cường, thích tranh đấu, quan hệ xã giao không tốt, đặc biệt thích góp vui. Họ là người hành động độc đoán, tự cho mình đúng và có tài thao túng. 

Nếu Phá Quân nhập hãm địa, tính tình của họ sẽ dữ dội và dễ dẫn đến cực đoan. Họ yêu ghét phân minh, là người thiên tính cố chấp, ý thức chủ quan mạnh, là điển hình cho chủ nghĩa cá nhân, đa phần thuộc kiểu người tự tư tự lợi, lòng dạ hẹp hòi, gian trá xảo quyệt. Phá Quân có sự hiếu kì lớn, làm việc gì cũng dựa vào hứng thú nhất thời, khó có sự bền chí đến cùng, thiếu kiên nhẫn, thường bỏ dở giữa chừng. 

Lời nói và việc làm tùy hứng bất chấp mọi thứ, cử chỉ khoa trương, cuồng ngạo đa nghi, tính khí cứng rắn, tự ý tổn thương người khác, có tính phá hoại, thích dùng vũ lực giải quyết vấn đề, coi cái xấu là tốt, việc giúp người là xấu, lấy ân báo oán, đối nhân xử thế thường mang ý thù địch, với người thân thì vô nhân nghĩa, khó có thể hòa nhập chung sống, thậm chí lục thân như nước với lửa, thường trở mặt với bạn bè, một đời dễ kết oán với người khác. 

Phá Quân không chịu cảnh nhàn rỗi, có tinh thần khai sáng và tâm lý hên xui mạnh mẽ, thích đầu cơ mạo hiểm, mơ ước chỉ qua một đêm trở nên giàu có. Nếu là nữ mệnh Phá Quân, họ sẽ có một đời vất vả, tuy lầm lì nhưng hiếu động, lòng tự tôn lớn, khó có thể vui vẻ dài lâu, thích ăn vặt, có khuynh hướng thần kinh, dễ làm ngược lại, tính tình chanh chua.

Xem ý nghĩa chi tiết của 14 chính tinh:

Từ xưa đến nay, người ta luôn tin rằng vị trí của các hành tinh trong bầu trời có ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta. Với sự phát triển của khoa học và công nghệ, chúng ta có thể dễ dàng theo dõi và phân tích vị trí của các hành tinh này để đưa ra những dự đoán về tương lai của mỗi người. Tuy nhiên, tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng, dù có những dự đoán chính xác, chúng ta không nên hoàn toàn tin tưởng vào tử vi mà quên đi sự nỗ lực và cố gắng của bản thân để thay đổi vận mệnh. Vận mệnh của mỗi người là do chính bản thân ta tạo ra, và chúng ta có thể thay đổi nó bằng cách thay đổi suy nghĩ và hành động của mình. Chính vì vậy, hãy luôn cố gắng và tin tưởng vào bản thân để tạo ra cuộc sống tốt đẹp hơn.

Bài viết liên quan

Sao Thiên Lương - Ý Nghĩa Ở Mệnh Và Các Cung

Sao Thiên Lương - Ý Nghĩa Ở Mệnh Và Các Cung

Nguyễn Hương
Nguyễn Hương 1 năm trước

Sao Thiên Lương tại mệnh và các cung khác có ý nghĩa như thế nào? Cùng tìm hiểu đặc điểm và ý nghĩa sao Thiên Lương trong bài viết này

Sao Thiên Đồng - Ý Nghĩa Ở Mệnh Và Các Cung

Sao Thiên Đồng - Ý Nghĩa Ở Mệnh Và Các Cung

Nguyễn Hương
Nguyễn Hương 1 năm trước

Sao Thiên Đồng tại mệnh và các cung khác có ý nghĩa như thế nào? Cùng tìm hiểu đặc điểm và ý nghĩa sao Thiên Đồng trong bài viết này

Sao Phá Quân - Ý Nghĩa Ở Mệnh Và Các Cung

Sao Phá Quân - Ý Nghĩa Ở Mệnh Và Các Cung

Nguyễn Hương
Nguyễn Hương 1 năm trước

Sao Phá Quân tại mệnh và các cung khác có ý nghĩa như thế nào? Cùng tìm hiểu đặc điểm và ý nghĩa sao Phá Quân trong bài viết này